Ñaït Nieäm Phaät Tam Muoäi
thì vieäc Vaõng Sanh ñaõ chaéc chaén

niemphat.edu.vn

LUẬN KIM CƯƠNG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHÁ THỦ TRƯỚC BẤT HOẠI GIẢ DANH - PHẦN BA

LUẬN KIM CƯƠNG BÁT NHàBA LA MẬT

PHÁ THỦ TRƯỚC BẤT HOẠI GIẢ DANH

Giảng giải: Bồ Tát Công Đức 

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Địa Bà Ha La, Đời Đường
 

PHẦN BA

 

Thánh giả Tu Bồ Đề lại suy niệm: Chư Phật lìa tất cả tưởng, chứng pháp vô tánh, vậy thế gian do tướng gì để tin, biết?

Vì thế, Kinh viết: Như Lai là chân ngữ, thật ngữ, như ngữ, không khác như ngữ.

Do đâu chỉ dùng bốn câu như vậy để hiển bày Chư Phật chứng thật, lìa tưởng?

Do trong thế gian, người cầu danh lợi, đối với pháp của bậc Thượng Nhân, chưa chứng nói là chứng. Phật khác với những kẻ ấy nên nói là chân ngữ.

Lại có hạng tham lam keo kiệt, tình nhiều giả dối, từng đạt được thần thông, tự biết đã mất, có người tới hỏi, chỉ nói phần trước đạt được. Đức Phật luôn xa lìa tâm ấy, nên gọi là thật ngữ.

Lại có người tu đạt được định của thế gian, tâm tạm thời không sinh, cùng đồng với tịch diệt, nhưng hướng tới kẻ khác nói ta chứng đắc Niết Bàn. Đức Phật hoàn toàn dứt trừ những thứ ngôn thuyết sai quấy ấy, nên gọi là như ngữ.

Ở đây nói như là chọn lấy nghĩa như thị như vậy, chỗ tùy theo chữ như, nên có thể so sánh, nhận biết, tất đồng hành. Như lúc nói về nghĩa, cùng đồng hành cùng trái nhau, cho đến nói rộng.

Trong đó, đồng hành: Như bò mẹ đi tới thì bò con cũng theo đến. Như cùng như thị nên biết cũng thế.

Đây là hiển bày Đức Như Lai đoạn trừ tất cả chướng, như chỗ đã chứng sáng rõ kia, như vậy mà nói, nêu, chẳng đồng với kẻ học được thiền thế gian, nói chứng Niết Bàn, lại liền thối mất.

Vì sao lại nói không khác như ngữ?

Là do các kẻ phàm phu, đối với các thứ mộng huyễn, như thành Càn Thát Bà, tiếng vang, hình tượng dợn nắng khi Trời nóng bức, các vòng lửa nối nhau, đối diện những thứ ấy, chấp trước, gọi là khác với như. Chư Phật thì không thế. Do đấy nói là không khác như ngữ.

Đây lại là thế nào?

Những người tất cả hàng phàm phu đã chấp giữ thành, phi thành là có, gọi là khác với như. Như Lai chứng đắc không phải là hư vọng, có tánh không dối, nên gọi là không khác như, thế nên mọi ngôn thuyết chưa từng là hư vọng.

Làm sao nhận biết được?

Vì Phật đã dứt trừ sạch hết thảy các chướng, có sự chứng đắc cùng giáo pháp có thể biện minh.

Thế nào là chứng đắc?

Ví như nói sắc là vô thường thì pháp của sắc hiện là vô thường.

Thế nào là giáo pháp?

Như có Kinh nói: Đồng tử! Ta nhận biết tất cả. Thấy rõ tất cả. Lại nữa, chân là tên gọi của bốn đế, Như Lai chứng biết bốn lý thâm diệu ấy, do đó có thể thuyết giảng. Thuyết giảng mà không biết, là không có điều ấy.

Ở đây, chân ngữ: Là nói về các uẩn như sắc thuộc Khổ Đế. Chân là khổ.

Thật ngữ: Là nói về nhân của khổ thật là ái thuộc Tập Đế, không phải là tự tại có thể làm nhân.

Như ngữ: Là nói về Niết Bàn vô vi tất cả Diệt Đế. Hữu vi là hư vọng, vô vi là trái lại. Như nói pháp vô vi tánh không hư vọng, gọi đó là như.

Không khác như ngữ: Là nói về Đạo Đế. Lìa tám chi đạo, nói chứng đắc Niết Bàn, là hư dối, không thật. Đạo ấy có thể chứng đắc thật, không vọng.

Hoặc có suy niệm: Nếu Chư Phật lìa tất cả tưởng, thì làm sao ở nơi pháp hiện chứng có thể nói tám chi đạo là thật?

Nhập nước, lửa là vọng. Nói thật, vọng nên có tưởng phân biệt.

Vì thế, Kinh viết: Này Tu Bồ Đề! Như Lai chứng đắc pháp, thuyết giảng pháp không thật, không vọng.

Nghĩa ấy là thế nào?

Như Lai chứng đắc đệ nhất nghĩa, bản tánh của tất cả pháp là không sinh. Không sinh nên không từng là có, vì sao gọi là thật.

Đã không sinh thì đâu có thật?

Do đấy không phải là phi vọng.

Hai cảnh thật vọng đều không thể thủ đắc, thì đối với gì mà sinh khởi phân biệt?

Pháp được nêu giảng là tánh của văn tự. Văn tự là hữu vi nên phi thật. Dựa vào đấy mà chứng đắc thật, nên phi vọng.

Lại nữa, nghi nêu: Nếu pháp được chứng đắc là không sinh, không tánh, phi thật phi vọng, tức là thân đệ nhất nghĩa của Chư Phật. Từ đấy làm nhân, ba thân thành đủ.

Bồ Tát do đâu xả bỏ pháp đã chứng đắc, trụ nơi sự mà hành bố thí?

Vì để loại trừ nghi vấn ấy, Kinh viết: Này Tu Bồ Đề! Ví như có người đi vào chốn tối tăm, không thấy gì cả. Nếu Bồ Tát, tâm trụ nơi sự mà hành bố thí. Hai dụ tối sáng này chỉ rõ về công đức, lỗi lầm của có trụ, không trụ.

Nghĩa ấy là thế nào?

Như người trong chỗ tăm tối, bỏ đường bằng phẳng, đi vào nơi không phải đường, rơi vào nẻo khó khăn hiểm trở, chịu nhiều khổ nạn, tại xứ vui thích gần đấy mà không đạt được.

Nếu các Bồ Tát trụ nơi sự để hành bố thí, là bỏ con đường bằng phẳng của tánh vô đắc, để đi vào nẻo hiểm trở của hữu đắc, ở trong sinh tử nhận lấy các thứ khốn ách, cảnh giới Niết Bàn, vào lúc nào mới có thể đến được?

Như người có mắt: Là đạt được nhẫn vô sinh.

Đêm tối đã hết: Là bỏ hẳn quả ái.

Ánh sáng mặt trời tỏa chiếu: Là quyết định nhận biết rõ về các pháp là vô tánh.

Thấy vô số sắc: Là tỏ ngộ tất cả pháp là vô sở đắc, là không diệt không sinh, không đoạn không thường, không một không khác, không đến không đi. Bồ Tát hành nơi xứ không trụ như thế, tất mau chóng thành tựu chánh giác, đắc Đại Niết Bàn.

Trong tất cả pháp tu hành ấy, có hai lợi tự, tha.

Tự lợi lại có giáo, nghĩa tu hành.

Giáo tu hành: Là thọ trì, đọc tụng.

Nghĩa tu hành: Là lắng nghe, tư duy.

Lợi tha: Nghĩa là vì người diễn nói.

Như Kinh nêu: Này Tu Bồ Đề! Nếu các thiện nam, thiện nữ, đối với pháp môn này, thọ trì, đọc tụng, tu tập, diễn nói, Như Lai đều nhận biết người ấy, đều thấy rõ người ấy, sinh vô lượng nhóm phước đức như thế, nhận lấy vô lượng phước đức như thế.

Ở đây, thọ nhận thọ: Là tạo tâm lãnh nạp.

Nắm giữ trì: Là ôn luyện, ghi nhớ không quên.

Đọc tụng: Là tụng rõ về văn.

Tu tập: Là lắng nghe cùng tư duy.

Vô lượng nhóm phước, sự việc ấy như thế nào?

Kinh viết: Nếu các thiện nam, thiện nữ, buổi sáng đem thân mạng nhiều như hằng hà sa để bố thí, cho đến: Đối với pháp môn này, tâm tin tưởng không hủy báng bố thí này, phước càng hơn hẳn so với trước, do sự cùng thời, hai thứ đều lớn.

Sự lớn: Như Kinh nói: Đem thân mạng nhiều như hằng hà sa để bố thí.

Thời gian lớn: Như Kinh nói: Trăm ngàn ức na do tha kiếp.

Tu hành đạt quả tự nhiên, nay nói thế nào gọi là quả tự nhiên?

Nghĩa là người tu hành, từ lúc bắt đầu, cho đến chưa thành chánh giác, đời này đời khác đạt được các công đức.

Gốc nơi đối tượng mong đạt tới là quả vị Phật, còn công đức là gì?

Đó là ma cùng với dị đạo không thể gây trở ngại, loạn động. Là công đức lớn, nên quả phước bền chắc thù thắng, không gì sánh bằng. Là tư lương viên mãn của pháp khí tối thượng. Có thể tự tạo được sự tin hiểu sâu lớn khó hơn nơi xứ của nhân phước, diệt sạch hết thảy các tội, mau chóng chứng đắc địa.

Ở đây, ma cùng với dị đạo không thể gây trở ngại, loạn động:

Như Kinh viết: Pháp môn này không thể nghĩ bàn.

Nghĩa ấy là thế nào?

Do uy lực của pháp là không thể nghĩ bàn, nên người đó phước tuệ có được vượt quá cảnh của các trí. Vì vậy các loại tà đạo đều không thể gây trở ngại, loạn động.

Công đức lớn nên thù thắng, không gì sánh bằng:

Như Kinh viết: Không thể nêu xét. Do có thể thọ trì pháp môn này, nên uy lực, công đức của pháp là không thể lường xét, các thứ khác không thể sánh bằng, thế nên người đó là hết sức thù thắng.

Quả phước bền chắc:

Như Kinh nói: Vô lượng quả báo, kẻ tà vạy không thể ngăn trở. Tức do công đức rộng lớn, nên ở trong hàng Trời, người, thọ nhận các thắng phước, không gì có thể xâm đoạt.

Pháp Khí tối thượng:

Như Kinh nói: Pháp môn này, Như Lai vì những người phát khởi đại thừa nên thuyết giảng. Vì những người phát khởi tối thượng thừa nên thuyết giảng. Tức pháp là chân thật, là tối thượng, nên thực hiện việc trao nhận là pháp khí.

Tư lương viên mãn:

Như Kinh viết: Nếu có người thọ trì, đọc tụng, tu tập, diễn nói. Ở đây, thọ trì, đọc tụng, vì người khác giảng nói, nên phước đức tăng trưởng. Lắng nghe, tư duy nên trí tuệ tăng trưởng.

Nêu rõ về tăng trưởng như thế nào?

Như Kinh nói: Đều thành tựu vô lượng nhóm công đức không thể nghĩ bàn, không thể xưng nêu, không có biên vực.

Nói vô lượng: Là hiển bày công đức này không phải là cảnh giới của tất cả tâm có thể lường xét. Thế nên, mọi tư duy đều không thể nhận biết, không thể giữ lấy, gọi là không biên vực có thể đạt được.

Có thể tự đảm đang được sự việc khó hơn: Như Kinh nói: Người như thế, tức có thể đảm nhận, hành trì đạo quả bồ đề vô thượng của Như Lai.

Nghĩa ấy là thế nào?

Như Đức Phật đã thành tựu pháp vi diệu khó nghĩ bàn, cứu độ rộng khắp mọi chúng sinh khổ não không sót loài nào. Người thọ trì Kinh phải nên như thế.

Tin, hiểu rộng lớn, sâu xa: 

Kinh viết: Nếu là người vui thích pháp nhỏ, tức đối với Kinh này không thể thọ trì, đọc tụng.

Ở đây, tin hiểu rộng lớn: Là không có ý lạc nhỏ.

Tin hiểu sâu xa: Là không có các kiến như ngã.

Xứ của nhân phước: Kinh viết: Tại khắp các xứ, nếu nêu giảng Kinh này.

Tích tập phước xả bỏ tội, nên gọi là Tháp Miếu chi đề. Công đức của người có thể diễn nói pháp, so với nơi chốn đó là như nhau, tuy nơi chốn ấy không tư duy, thọ trì, nêu giảng.

Diệt trừ sạch hết tất cả tội: Như Kinh viết: Nếu các thiện nam, thiện nữ thọ trì, đọc tụng Kinh này, lại bị người khinh thường.

thọ trì Kinh này mới dẫn đến thành Phật, trái lại bị người khinh chê.

Sự việc ấy là sao?

Kinh viết: Người ấy nơi đời trước đã tạo nghiệp tội đáng lẽ bị đọa vào đường ác, do đời nay thọ trì, đọc tụng Kinh này, nên chỉ bị kẻ khác khinh chê, vì vậy nghiệp tội của đời trước liền được tiêu trừ.

Phẩm Như Lai nói: Nếu lại có người thọ trì Kinh này, cho đến giảng nói rộng, người đó nơi đời hiện tại, hoặc gặp mộng ác, hoặc mắc phải bệnh nặng, hoặc bị bức bách xua đuổi khiến phải đi xa, nhục mạ, đánh đập cho đến mất mạng, các thứ nghiệp ác hiện có đều được tiêu trừ.

Lại có tụng nói:

Nếu người tạo nghiệp ác

Gây rồi sinh sợ hãi

Tự hối hoặc hướng người

Trừ hết mọi gốc rễ.

Tâm sợ hãi, sám hối tội lỗi hãy còn trừ diệt gốc rễ, huống chi là có người thọ trì chánh pháp. Ở đây, há không phải là trái hẳn so với các giáo pháp khác sao.

Như nói:

Nghiệp tuy trải trăm kiếp

Nhưng trọn không hoại mất

Lúc các duyên hội hợp

Tất yếu sinh nơi quả.

Không phải là có mâu thuẫn.

Đấy lại là thế nào?

Và như mười nghiệp bất thiện, là nghiệp của nẻo ác, do thọ trì chánh pháp cùng sám hối tội trước, nên quả của nẻo ác tuy vĩnh viễn không sinh, nhưng nơi thân hiện tại phải nhận các báo khổ.

Hiện thọ nhận các khổ há là nghiệp hoại mất chăng?

Không sinh nơi đường ác, không phải là dứt hết gốc rễ của tội chăng?

Nếu có nghiệp Vô Gián quyết định, thì sau khi mạng chung nhất định sinh vào chốn ấy, nên kiếp trụ chỉ thọ nhận trong chốc lát rồi ra khỏi, như Vua A Xà Thế. Do đấy không trái nhau.

Mau chóng chứng Địa:

Kinh viết: Ta nhớ nghĩ về vô lượng A tăng kỳ kiếp nơi quá khứ, cho đến: Nếu lại có người, nơi đời vị lai, có thể thọ trì, đọc tụng Kinh này, rộng vì người khác giảng nói, thì công đức của Ta có được do cúng dường Chư Phật so với phước đức này, không bằng một phần trăm.

Nghĩa này là thế nào?

Phước đức có được do cúng dường vô biên Chư Phật, không chứng đắc chân thật. Thọ trì pháp môn này thì mau chóng có thể chứng đắc. Do vậy, uy lực của công đức thọ trì Kinh, nếu như chia làm trăm phần, thì nhóm phước đức không bằng một. Như thế, ngàn phần, trăm ngàn phần, số phần, đều không bằng, theo loại nên biết.

Số: Nghĩa là sáu mươi bậc, quá bậc ấy trở đi thì số không thể đạt được.

Ca la không đạt tới, so xét không đạt tới: Đây là dựa nơi nghĩa vi tế của Ca La mà nói. Tức là phước của sự thọ trì Kinh, tánh hết sức vi tế, công đức đã nhiều, không phải làchỗ đạt tới của công đức trước. Tận cùng nơi sự so xét, trọn không sánh bằng. Vi tế hãy còn như thế, huống chi là tất cả.

Ưu ba ni sa: Là nhân.

Nghĩa này là thế nào?

Ở đây, phần ít trước, đối với quả tối thắng tức thành tánh nhân. Còn toàn bộ nhóm phước đức ở trước cũng không thành nhân, không thể đạt được quả chân thật.

Thí dụ cũng không đạt được: Như có đồng nữ tên là Nguyệt Diện Mặt như vầng trăng.

Mặt của đồng nữ há có thể hoàn toàn giống với mặt trăng?

Do có vẻ tươi sáng nên có phần ít tương đồng. Nhóm phước ở trước tức không như thế. Không có chút tương tợ để có thể thí dụ.

Đây lại là thế nào?

Nghĩa là phước của việc chỉ thọ trì văn tự, thì phước trước so với đây là không có tánh tương tợ, không phải là người phước mỏng mà có thể nghi nhận văn tự ấy.

Như Kinh nói: Nếu Ta nêu bày đầy đủ, thì hoặc có người nghe tâm tức mê hoặc mà sinh khinh thường. Nghĩa là nghe nói về uy lực của công đức ấy, lúc suy xét thì không tin.

Như Kinh nói: Pháp môn này là không thể nghĩ bàn. Quả báo cũng không thể nghĩ bàn. Do uy lực thù thắng nên cả hai cùng khó xét lường.

Tôn Giả Tu Bồ Đề do đâu lại nói: Phát khởi Bồ Tát thừa, nên làm thế nào để trụ?

Muốn hiển bày đầy đủ tướng thanh tịnh của nhân, vì sao không đủ?

Thế nào là hiển bày đầy đủ?

Nghĩa là nhân của sự tu tập không những chỉ lìa nơi tướng, tưởng của ba sự liền gọi là thanh tịnh, mà còn phải xa lìa các tưởng ngã trụ, ngã tu, ngã hàng phục tâm như vậy mới được thanh tịnh.

Như Kinh viết: Nên sinh tâm như thế, cho đến: Thật không có pháp gọi là phát khởi Bồ Tát thừa.

Đây lại là thế nào?

Tức nơi đệ nhất nghĩa không có chúng sinh đắc Bát Niết Bàn, cũng không có pháp gọi là Bồ Tát phát tâm, trụ quả, tu hành, hàng phục. Ở trong không có, mà khởi có tưởng, là hành điên đảo, không phải là nhân thanh tịnh.

Lại nữa, nghi nêu: Nếu không có Bồ Tát phát tâm hướng tới đại thừa, tức không có nhân để chứng đắc quả vị Phật, thành đủ bốn thứ nghiệp lợi ích.

Vì sao Đức Thế Tôn, nơi trụ xứ của Phật Nhiên Đăng đã được thọ ký: Ông nơi đời vị lai sẽ đạt được quả vị Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni, có thể thành tựu bốn thứ sự đem lại lợi ích cho chúng sinh.

Vì nhằm đoạn trừ nghi vấn ấy, Kinh viết: Này Tu Bồ Đề! Ý của Tôn Giả thế nào?

Như Lai, về thời xa xưa, nơi trụ xứ của Phật Nhiên Đăng, từng có pháp để đắc đạo quả bồ đề vô thượng chăng?

Ở đây, ý nói Đức Phật vào thời xa xưa, lúc chứng đắc nghĩa chân thật, được thọ ký, không thấy chút pháp nào gọi là bồ đề vô thượng. Thể của nhân do vô sở đắc, nên được thọ ký. Đây tức chứng biết tất cả pháp đều vô sở đắc.

Như Kinh nói: Này Tu Bồ Đề! Nói Như Lai, là do chân như.

Chân như: Là nghĩa vô sở đắc.

Tôn Giả Tu Bồ Đề tâm niệm: Ta đối với chỗ giảng nói ấy không còn nghi, nhưng có người nói: Nơi trụ xứ của Phật Nhiên Đăng nếu không thấy có pháp, thì sao có thể chứng đắc bồ đề, lên tòa giác ngộ, há cũng như thế?

Do đấy Kinh viết: Này Tu Bồ Đề! Nếu có người nói Như Lai chứng đắc đạo quả bồ đề vô thượng, thì người ấy nói không thật.

Cho đến: Như Lai chứng đắc pháp, trong đó không thật không vọng.

Nghĩa ấy là thế nào?

Phàm là thật, vọng, là sinh nơi hữu đắc, có lúc nói thật hoại, có lúc nhận biết vọng. Trong vô sở đắc, thì hai thứ ấy cùng dứt.

Lại có suy niệm: Nếu Như Lai chỉ chứng vô sở đắc, thì Phật Pháp tức chỉ một, không phải là vô biên.

Thế nên Kinh nêu: Như Lai nói tất cả pháp đều là Phật Pháp.

Phật Pháp nghĩa là gì?

Tức là vô sở đắc. Chưa từng có một pháp nào có tánh có thể đắc, do đấy, tất cả pháp không gì không là Phật Pháp.

Thế nào là tất cả đều vô sở đắc?

Kinh viết:  Tất cả pháp tức phi tất cả pháp.

Thế nào là phi?

Là tánh vô sinh. Nếu vô sinh tức là vô tánh.

Thế nào gọi là tất cả pháp?

Tức ở trong vô tánh, giả nêu bày, giảng nói.

Tất cả pháp không có tánh: Tức là tánh nơi Như Lai tạng của chúng sinh. Vì vậy, Đức Thế Tôn, thuận theo thứ lớp để mở bày, làm rõ.

Kinh viết: Này Tu Bồ Đề! Ví như có người thân tướng diệu đại.

Thân diệu đại: Nghĩa là thân tánh không.

Vì sao là diệu đại?

Tùy theo nơi chốn hiện có, nhưng không khác, nên hết thảy chúng sinh đều cùng có. Như nói không tánh của một chúng sinh này, tánh không của tất cả chúng sinh kia, Như Lai có, chúng sinh cũng có.

Do đâu chỉ nói Như Lai tạng nơi tất cả chúng sinh có. Không nói chúng sinh tạng nơi Đức Như Lai có. Do các chúng sinh chưa chứng đắc lý không, Như Lai thì đã chứng đắc.

Như có Kinh nói: Bên trong thân chúng sinh có Như Lai tạng gồm đủ tướng trang nghiêm, há chẳng đồng với vọng chấp thần ngã?

Tuy nói như thế nhưng thấu tỏ về tánh không gọi là pháp thân. pháp thân là nhân nên sinh ra sắc tướng, chẳng phải đồng với chỗ nói về ngã của ngoại đạo.

Như Kinh Lăng Già, Bồ Tát Đại Tuệ bạch Phật: Thế Tôn!

Trong Tu Đa La nói: Như Lai tạng bản tánh thanh tịnh, có đủ ba mươi hai tướng, ở trong thân của tất cả chúng sinh thường trụ, bất biến. Vì tham sân si phân biệt hư vọng tạo cấu uế nơi uẩn giới xứ, dựa vào đấy nên bị trói buộc, cũng như ngọc báu vô giá được bọc trong tấm áo dơ bẩn.

Thế Tôn! Ở đây nói như thế nào, không đồng với tà luận của ngoại đạo?

Ngoại đạo nói ngã là thường, là kẻ tạo tác, thể không phải là cầu na nương dựa, dựa nơi đế, hiện hữu khắp nơi, vô tận.

Đức Phật bảo: Này Đại Tuệ! Ta giảng nói về Như Lai Tạng, nghĩa không giống với ngoại đạo nói về ngã. Như Lai Tạng tức là tánh không nơi thật tế, Niết Bàn, với các nghĩa không sinh, không diệt, vô tướng, vô nguyện. Như Lai muốn ngăn dứt hẳn sự sợ hãi về vô ngã của kẻ ngu tối, nên nói về môn Như Lai Tạng của cảnh giới không phân biệt, không hư vọng.

Này Đại Tuệ! Các Bồ Tát Ma ha tát hiện tại, vị lai, không nên ở chỗ chấp trước ấy sinh khởi ngã kiến, cho đến nói rộng.

Tôn Giả Tu Bồ Đề vì muốn làm rõ về diệu thân, đại thân là nghĩa không tánh, nên Kinh viết: Như Lai nói người có thân diệu, đại tức là phi thân. Phi thân nghĩa là do sắc thân dựa nơi nghĩa thật mà nói, tánh không sinh, nên nói tánh không sinh là thân diệu đại, không phải là sắc thân. Ở trên đã nói về tướng của nhân thanh tịnh, nghĩa chưa viên mãn.

Vì để được đầy đủ, Kinh nêu: Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát cũng như thế.

Nếu nói: Ta sẽ độ thoát cho vô lượng chúng sinh, tức chẳng phải là Bồ Tát do chính là nhằm trừ bỏ tất cả phân biệt về chủ thể hóa độ, đối tượng được hóa độ, thì Bồ Tát tu nhân mới được thanh tịnh.

Lại để thành tựu tâm không phân biệt, Kinh viết: Từng có pháp gọi là Bồ Tát chăng?

Tu Bồ Đề thưa: Không có, bạch Đức Thế Tôn!

Cho đến: Phật nói tất cả pháp là không ngã, không chúng sinh.

Trong đệ nhất nghĩa, không có Bồ Tát, không có phàm phu.

Ta sẽ làm trang nghiêm quốc độ của Phật, không gọi là Bồ Tát: Là do nhiễm chấp nơi nhân, nên đối với các nhóm như sắc, đã chấp giữ, cho là tạo thành Cõi Phật.

Tức phi trang nghiêm: Là thật nghĩa không sinh.

Đó gọi là trang nghiêm: Là ngôn thuyết theo Tục Đế.

Thông tỏ pháp vô ngã, nên gọi là Bồ Tát: Là nhân thanh tịnh, lìa tất cả tưởng.

Lại nữa, nghi nêu: Nếu nhân thanh tịnh lìa các tưởng, là có cảnh có thể đạt được, hay là không có?

Thế nên ở đây nói cảnh giới của Phật.

Kinh viết: Này Tu Bồ Đề! Ý của Tôn Giả thế nào?

Như Lai có nhục nhãn chăng?

Tu Bồ Đề thưa: Đúng vậy, bạch Đức Thế Tôn! Như Lai có nhục nhãn.

Cho đến: Như Lai có Phật nhãn chăng?

Tu Bồ Đề thưa: Đúng vậy, bạch Đức Thế Tôn! Như Lai có Phật nhãn.

Do đâu Đức Thế Tôn nói đủ về năm thứ mắt?

Là nêu bày về cảnh giới, không gì là không nhận biết rõ. Ở đây có số cảnh của chúng sinh và phi số cảnh của chúng sinh.

Như Kinh nói: Chúng sinh hiện có với từng ấy thứ tâm trụ: Là hiển thị về sự nhận biết rõ số cảnh của chúng sinh.

Nơi hằng hà sa số Thế Giới: Là làm rõ sự nhận biết về phi số cảnh của chúng sinh.

Từng ấy thứ tâm: Là mong muốn, vui thích không đồng.

Trụ: Là nối tiếp mà chuyển.

Hoặc khởi suy niệm: Tâm nếu có thể trụ, thì đây nên có thể.

Do đấy Kinh viết: Như Lai nói các tâm trụ đều là phi tâm trụ.

Phi tâm trụ: Là nơi đệ nhất nghĩa, không có nối tiếp.

Như Kinh nói: Vì sao?

Này Tu Bồ Đề! Tâm quá khứ không thể đạt được. Tâm hiện tại không thể đạt được. Tâm vị lai không thể đạt được.

Đây lại là thế nào?

Tức tâm quá khứ đã diệt. Tâm vị lai chưa sinh. Tâm hiện tại không dừng trụ, không hiện bày.

Kinh Bảo Tích nói: Này Ca Diếp! Tất cả Chư Phật không thấy tâm quá khứ, không thấy tâm vị lai, không thấy tâm hiện tại, cho đến nói rộng.

Kinh viết: Nếu nhóm phước đức có thật, Như Lai tức không nói là nhóm phước đức.

Ý này là thế nào?

Nhóm tụ: Là nghĩa tích tụ. Giả danh, không thật, thật tức phi nhóm.

Đối với gì nói là nhóm?

Vì sao biết là giả danh không thật?

Nơi đệ nhất nghĩa, không có tích tụ, còn trong tục đế thì có ngôn thuyết. Như vậy, năm thứ mắt đều là vô sở đắc, là cảnh giới của Phật.

Theo đấy nên biết: Nhân tịnh lìa tưởng, không có cảnh có thể thủ đắc.

Do đó, trong Đại Bát Nhã Ba La Mật, nói như vậy: Này Tu Bồ Đề! Năm thứ mắt của Như Lai, nơi đệ nhất nghĩa đều là vô sở đắc. Nếu nói là hữu đắc, là kẻ ngu đã hủy báng Như Lai.

Lại nữa, nghi nêu: Nếu nơi đệ nhất nghĩa, cảnh giới của Phật là vô sở đắc, thì sắc tướng Như Lai phải chăng cũng không có?

Vì loại trừ nghi vấn ấy, Kinh viết: Này Tu Bồ Đề! Ý của Tôn Giả thế nào?

Như Lai có thể dùng sắc thân đầy đủ để thấy chăng?

Tu Bồ Đề thưa: Không thể, bạch Đức Thế Tôn! Đây là hiển bày về việc thấy pháp thân Phật.

Làm sao thấy?

Như Kinh nêu: Như Lai nói sắc thân đầy đủ tức phi sắc thân đầy đủ. Đây là dựa nơi thật nghĩa, tức ở nơi sắc tướng mà thấy pháp thân.

Phi đầy đủ: Là pháp thân.

Như nói: Tánh vô sinh là Như Lai thường trụ, cho đến nói rộng.

***